Tiểu sử Hai Bà Trưng
Trưng Trắc, Trưng Nhị là 2 chị em con gái lạc tướng huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) thuộc dòng dõi Hùng Vương. Trưng Trắc là một phụ nữ đảm đang, dũng cảm. Chồng bà là Thi Sách con trai lạc tướng huyện Chu Diên (Nam Hà) cũng là một người con yêu nước và có chí khí quật cường. Hai gia đình lạc tướng với sự ủng hộ của nhân dân đang cùng nhau liên kết với các thủ lĩnh khác chuẩn bị cùng nổi dậy lật đổ ách đô hộ nhà Hán. Đúng lúc đó,Thi Sách bị viên Thái Thú Tô Định bày mưu giết hại. Hành vi bạo ngược của Tô Định không làm Trưng Trắc nhụt chí. Hai Bà Trưng quyết tâm tiến hành cuộc khởi nghĩa để đền nợ nước, trả thù nhà.
Tháng 3 năm 40, Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị phát động khởi nghĩa ở cửa sông Hát (Hát Môn, Hà Tây, nay là Hà Nội). Nghĩa quân nhanh chóng làm chủ Mê Linh.Từ Mê Linh nghĩa quân tiến đánh Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội); rồi từ đó tiến về Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh),trung tâm của chính quyền đô hộ. Dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, các cuộc khởi nghĩa ở khắp bốn quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đã thống nhất thành một phong trào nổi dậy rộng lớn cả nước. Bị đòn bất ngờ. Chính quyền đô hộ tan rã và sụp đổ nhanh chóng. Quân Hán hoảng sợ bỏ hết của cải, vũ khí, ấn tín chạy tháo thân về nước. Tô Định phải cắt tóc, cạo râu, mặc giả thường dân, lẩn vào đám tàn quân trốn về Trung Quốc. Chỉ trong vòng không đầy một tháng, cuộc khởi nghĩa hoàn toàn thắng lợi, giành lại nền độc lập dân tộc sau hơn hai thế kỉ bị phong kiến nước ngoài đô hộ. Trưng Trắc được suy tôn lên làm vua (Trưng Vương) và đóng đô ở Mê Linh (Vĩnh Phúc). Hai năm liền nhân dân được xá thuế.
Cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng thắng lợi đã tô thắm những trang sử vàng của đất nước. Hai Bà Trưng cũng là hai nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam ta.